Những giấc mơ và ý nghĩa của chúng thay đổi giữa các nền văn hóa và khoảng thời gian khác nhau. Vào cuối thế kỷ 19, bác sĩ tâm thần người Áo Sigmund Freud đã tin rằng giấc mơ đại diện cho cơ hội tiếp cận với vô thức. Bằng cách phân tích những giấc mơ, Freud nghĩ rằng mọi người có thể nâng cao nhận thức về bản thân và có được cái nhìn sâu sắc có giá trị để giúp họ giải quyết những vấn đề họ gặp phải trong cuộc sống. Freud đã phân biệt giữa nội dung bên ngoài và nội dung tiềm ẩn của những giấc mơ. Nội dung bên ngoài là nội dung thực tế, hoặc cốt truyện của một giấc mơ. Mặt khác, nội dung tiềm ẩn đề cập đến ý nghĩa đằng sau của một giấc mơ. Ví dụ, nếu một người phụ nữ mơ thấy bị rắn rượt đuổi, Freud có thể lập luận rằng điều này thể hiện nỗi sợ hãi về sự gần gũi tình dục của người phụ nữ, với con rắn là biểu tượng cho dương vật của đàn ông.

Freud không phải là lý thuyết gia duy nhất tập trung vào nội dung của những giấc mơ. Nhà tâm thần học người Thụy Sĩ ở thế kỷ 20 Carl Jung tin rằng những giấc mơ cho phép chúng ta khai thác tính vô thức tập thể. Vô thức tập thể, như Jung mô tả, là một kho lý thuyết về thông tin mà chúng ta tin rằng thông tin đó sẽ được chia sẻ bởi mọi người. Theo Jung, một số biểu tượng nhất định trong giấc mơ phản ánh các nguyên mẫu bao quát với ý nghĩa giống nhau cho tất cả mọi người, bất kể nền văn hóa hay địa điểm nào.

Alan Hobson, một nhà khoa học thần kinh, được ghi nhận là người đã phát triển lý thuyết tổng hợp về sự kích hoạt của giấc mơ. Các phiên bản ban đầu của lý thuyết này đã đề xuất rằng giấc mơ không phải là sự thể hiện đầy hàm ý của cơn giận dữ do Freud và những người khác đề xuất, mà là kết quả của việc bộ não của chúng ta cố gắng hiểu (tổng hợp) hoạt động thần kinh (kích hoạt) đang xảy ra trong giấc ngủ REM. Các điều chỉnh gần đây (ví dụ, Hobson, 2002) tiếp tục cập nhật thêm lý thuyết dựa trên nhiều bằng chứng tích lũy. Ví dụ, Hobson (2009) cho rằng giấc mơ có thể đại diện cho một trạng thái của ý thức. Nói cách khác, mơ liên quan đến việc xây dựng một thực tế ảo trong đầu mà chúng ta có thể sử dụng để giúp chúng ta trong lúc tỉnh táo. Trong số nhiều bằng chứng sinh học thần kinh, John Hobson đã trích dẫn nghiên cứu về những giấc mơ sáng suốt như một cơ hội để hiểu rõ hơn về giấc mơ nói chung. Giấc mơ sáng suốt là giấc mơ trong đó có một vài chi tiết của sự tỉnh táo được duy trì trong trạng thái mơ. Trong một giấc mơ sáng suốt, một người nhận thức được thực tế là họ đang mơ và như vậy, họ có thể kiểm soát nội dung của giấc mơ (LaBerge, 1990).