Chất kích thích [stimulants] là loại chất có xu hướng làm tăng mức độ hoạt động thần kinh toàn thể. Nhiều loại chất trong số này hoạt động như chất chủ vận của hệ thống dẫn truyền thần kinh dopamine. Hoạt động dopamine thường liên quan đến phần thưởng và sự thèm muốn; do đó, cũng có các biểu hiện lạm dụng các chất này. Những chất kích thích trong danh mục này bao gồm cocaine, amphetamine (kể cả methamphetamine), cathinones (tức là muối tắm), MDMA (thuốc lắc), nicotine và caffeine. Cocain có thể được dùng theo nhiều cách. Trong khi nhiều người dùng hít cocaine, việc tiêm và uống vào tĩnh mạch cũng rất phổ biến. Phiên bản freebase của cocaine, được gọi là “crack”, là một phiên bản mạnh, có thể hút như thuốc. Giống như nhiều chất kích thích khác, cocaine làm rối loạn hệ thống dẫn truyền thần kinh dopamine bằng cách ngăn chặn sự tái hấp thu dopamine trong khớp thần kinh.

Amphetamine có cơ chế hoạt động khá giống với cocaine ở chỗ chúng ngăn chặn sự tái hấp thu dopamine bên cạnh việc kích thích giải phóng nó. Trong khi amphetamine thường bị lạm dụng, chúng cũng thường được kê cho trẻ em được chẩn đoán mắc phải rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Có vẻ trái ngược với trực giác rằng thuốc kích thích được kê đơn để lại khiến tăng động thêm, nhưng hiệu quả của những chất này đến từ sự gia tăng hoạt động dẫn truyền thần kinh trong một số vùng nhất định của não liên quan đến việc kiểm soát xung động, ngăn ngừa tăng động.

Trong những năm gần đây, việc sử dụng methamphetamine (meth) ngày càng trở nên phổ biến. Methamphetamine là một loại amphetamine có thể được tạo ra từ các thành phần có sẵn (ví dụ: thuốc có chứa pseudoephedrine, một hợp chất được tìm thấy trong nhiều loại thuốc chữa cảm lạnh và cảm cúm không kê đơn).

Những người sử dụng cocaine, amphetamine, cathinones và MDMA tìm kiếm cảm giác hưng phấn cao độ, cảm giác hưng phấn và khoái cảm mãnh liệt, đặc biệt là ở những người dùng chúng qua đường tiêm tĩnh mạch hoặc hút thuốc. Việc sử dụng nhiều lần các chất kích thích này có thể gây ra những hậu quả bất lợi đáng kể. Người sử dụng có thể gặp các triệu chứng thể chất bao gồm buồn nôn, huyết áp tăng và tăng nhịp tim. Ngoài ra, những loại thuốc này có thể gây ra cảm giác lo lắng, ảo giác và hoang tưởng (Fiorentini et al., 2011). Hoạt động bình thường của não bị thay đổi sau khi sử dụng nhiều lần các loại thuốc này. Ví dụ, sử dụng nhiều lần có thể dẫn đến sự suy giảm toàn thể các chất dẫn truyền thần kinh monoamine (dopamine, norepinephrine và serotonin). Mọi người có thể bắt buộc sử dụng một phần các chất kích thích này nhằm cố gắng thiết lập lại hoạt động bình thường của các chất dẫn truyền thần kinh ấy (Jayanthi & Ramamoorthy, 2005; Rothman, Blough, & Baumann, 2007).

Caffeine là một loại chất kích thích khác. Mặc dù nó có lẽ là chất được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới, nhưng hiệu lực của loại chất đặc biệt này kém hơn so với các loại chất kích thích khác được mô tả trong phần này. Nói chung, mọi người sử dụng caffeine để duy trì mức độ tỉnh táo và hưng phấn. Caffeine được tìm thấy trong nhiều loại thuốc thông thường (như thuốc giảm cân), đồ uống, thực phẩm và thậm chí cả mỹ phẩm (Herman & Herman, 2013). Mặc dù caffeine có thể có một số tác động gián tiếp đến dẫn truyền thần kinh dopamine, nhưng cơ chế hoạt động chính của nó liên quan đến hoạt động đối kháng của adenosine (Porkka-Heiskanen, 2011).

Mặc dù caffeine thường được coi là một loại thuốc tương đối an toàn, nhưng nồng độ caffeine trong máu cao có thể dẫn đến mất ngủ, kích động, co giật cơ, buồn nôn, nhịp tim không đều và thậm chí tử vong (Reissig, Strain, & Griffiths, 2009; Wolt, Ganetsky, & Babu, 2012). Năm 2012, Kromann và Nielson đã báo cáo về một nghiên cứu trường hợp về một phụ nữ 40 tuổi, người bị ảnh hưởng nặng nề do sử dụng caffeine. Trước đây, người phụ nữ này sử dụng caffeine để cải thiện tâm trạng và duy trì năng lượng, nhưng trong vài năm, cô ấy đã tăng mức tiêu thụ caffeine đến mức tiêu thụ 3 lít soda mỗi ngày. Mặc dù cô ấy đã dùng thuốc chống trầm cảm theo đơn, nhưng các triệu chứng trầm cảm của cô ấy vẫn tiếp tục trầm trọng hơn và cô ấy bắt đầu đau đớn về thể chất, và báo hiệu cảnh báo đáng kể của bệnh tim mạch và tiểu đường. Khi nhập viện ngoại trú để điều trị rối loạn tâm trạng, cô đã đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn chẩn đoán về sự phụ thuộc vào chất kích thích và được khuyên nên hạn chế đáng kể lượng dùng caffeine. Một khi cô ấy có thể hạn chế sử dụng ít hơn 12 ounce soda mỗi ngày, sức khỏe tinh thần và thể chất của cô ấy dần dần được cải thiện. Mặc dù sự phổ biến của việc sử dụng caffeine và số lượng lớn những người thú nhận bị nghiện caffeine, đây là mô tả đầu tiên được công bố về sự phụ thuộc vào soda xuất hiện trong các tài liệu khoa học.

Nicotine có tính gây nghiện cao và việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ và nhiều loại ung thư. Nicotine phát huy tác dụng thông qua sự tương tác của nó với các thụ thể acetylcholine. Acetylcholine có chức năng như một chất dẫn truyền thần kinh trong tế bào thần kinh vận động. Trong hệ thống thần kinh trung ương, nó đóng một vai trò trong cơ chế kích thích và khen thưởng. Nicotine được sử dụng phổ biến nhất dưới dạng các sản phẩm thuốc lá như điếu thuốc hoặc thuốc lá nhai, do đó, có một sự quan tâm to lớn trong việc phát triển các kỹ thuật cai thuốc lá hiệu quả. Cho đến nay, mọi người đã sử dụng nhiều liệu pháp thay thế nicotine ngoài các lựa chọn trị liệu tâm lý khác nhau nhằm cố gắng ngừng sử dụng các sản phẩm thuốc lá. Nhìn chung, các chương trình cai thuốc lá có thể có hiệu quả trong ngắn hạn, nhưng vẫn chưa rõ liệu những hiệu quả này có tồn tại hay không (Cropley, Theadom, Pravettoni, & Webb, 2008; Levitt, Shaw, Wong, & Kaczorowski, 2007; Smedslund, Fisher, Boles & Lichtenstein, 2004).