Thể chất
Ở giai đoạn trẻ chập chững [toodlerhood], sự phát triển thể chất của cơ thể trẻ diễn ra nhanh chóng. Trung bình, trẻ sơ sinh nặng từ 2.2 đến 5.5 cân và trọng lượng của trẻ sơ sinh thường tăng gấp đôi trong sáu tháng và tăng gấp ba trong một năm. Đến 2 tuổi, trọng lượng sẽ tăng gấp 4 lần, vì vậy chúng ta có thể mong đợi rằng một đứa trẻ 2 tuổi sẽ nặng từ 9 đến 18 cân. Chiều dài trung bình của trẻ sơ sinh là 0.4 mét, tăng lên 0.7 mét inch khi 12 tháng tuổi và 0,8 mét khi 2 tuổi (Nhóm nghiên cứu tham khảo về tăng trưởng đa trung tâm của WHO, 2006).
Trong thời kỳ sơ sinh và chập chững, sự tăng trưởng không diễn ra với tốc độ ổn định (Carel, Lahlou, Roger, & Chaussain, 2004). Tăng trưởng chậm lại từ 4 đến 6 tuổi. Trong thời gian này, trẻ tăng thêm 2,2 đến 3 ký và khoảng 5 đến 7cm mỗi năm. Khi các bé gái được 8 - 9 tuổi, tốc độ phát triển của các bé sẽ vượt xa các bé trai do tốc độ tăng trưởng do dậy thì. Sự tăng trưởng này tiếp tục cho đến khoảng 12 tuổi, trùng với thời điểm bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt. Đến 10 tuổi, trung bình một bé gái nặng xấp xỉ 40 cân và cậu bé trung bình nặng 38.5 cân.
Chúng ta được sinh ra với tất cả các tế bào não mà chúng ta sẽ có khoảng 100 đến 200 tỷ tế bào thần kinh có chức năng là lưu giữ và truyền tải thông tin (Huttenlocher & Dabholkar, 1997). Tuy nhiên, hệ thần kinh vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Mỗi con đường thần kinh hình thành hàng nghìn kết nối mới trong giai đoạn sơ sinh cho đến khi chập chững biết đi. Giai đoạn phát triển thần kinh nhanh chóng này được gọi là thời kỳ nở hoa. Các con đường thần kinh tiếp tục phát triển qua tuổi dậy thì. Sau đó, giai đoạn nở rộ của sự phát triển thần kinh được theo sau bởi thời kỳ cắt tỉa, nơi các kết nối thần kinh bị giảm đi. Người ta cho rằng cắt tỉa làm cho não hoạt động hiệu quả hơn, cho phép thành thạo các kỹ năng phức tạp hơn (Hutchinson, 2011). Sự nở hoa xảy ra trong vài năm đầu đời và việc cắt tỉa tiếp tục diễn ra trong suốt giai đoạn nhi đồng và đến thành niên ở các vùng khác nhau của não.
Kích thước bộ não của chúng ta tăng lên nhanh chóng. Ví dụ, não của trẻ 2 tuổi bằng 55% kích thước của người trưởng thành và đến 6 tuổi, não của trẻ bằng 90% kích thước của người trưởng thành (Tanner, 1978). Trong giai đoạn nhi đồng (3 – 6 tuổi), các thùy trán phát triển nhanh chóng. Lại nói về những gì ta đã thảo luận về bốn thùy não trong bài đọc cơ sở sinh học trước đó, các thùy trán có liên quan đến việc lập kế hoạch, suy luận, ghi nhớ và kiểm soát xung động. Do đó, khi trẻ đến tuổi đi học, trẻ đã phát triển về khả năng kiểm soát sự chú ý và hành vi của mình. Qua những năm học tiểu học, các thùy trán, thùy thái dương, thùy chẩm và thùy đỉnh đều phát triển về kích thước. Sự phát triển vượt bậc của não bộ trải qua thời thơ ấu có xu hướng tuân theo trình tự phát triển nhận thức của Piaget, do đó những thay đổi đáng kể trong hoạt động thần kinh là nguyên nhân dẫn đến những tiến bộ về nhận thức (Kolb & Whishaw, 2009; Overman, Bachevalier, Turner, & Peuster, 1992).
Sự phát triển vận động diễn ra theo một trình tự có trật tự khi trẻ sơ sinh chuyển từ phản ứng phản xạ (ví dụ: phản xạ gốc tìm vú mẹ và mút) sang chức năng vận động nâng cao hơn. Ví dụ, trẻ sơ sinh đầu tiên học cách ngẩng cao đầu, sau đó ngồi với sự trợ giúp, sau đó là ngồi không cần trợ giúp, tiếp theo là bò và sau đó là đi.
Kỹ năng vận động đề cập đến khả năng di chuyển cơ thể của chúng ta và điều khiển các vật thể. Các kỹ năng vận động tập trung vào các cơ ở ngón tay, ngón chân, mắt và cho phép trẻ phối hợp các hành động nhỏ (ví dụ: cầm nắm đồ chơi, viết bằng bút chì và sử dụng thìa). Các kỹ năng vận động tổng thể tập trung vào các nhóm cơ lớn kiểm soát cánh tay và chân của chúng ta và liên quan đến các chuyển động lớn hơn (ví dụ: giữ thăng bằng, chạy và nhảy).
Với các kỹ năng vận động phát triển, trẻ nhỏ cần đạt được một số mốc phát triển nhất định (Bảng 1). Đối với mỗi cột mốc, có một độ tuổi trung bình, cũng như một số độ tuổi mà cột mốc đó cần đạt được. Một ví dụ về cột mốc phát triển ở mức độ: ngồi. Trung bình, hầu hết trẻ sơ sinh ngồi một mình khi được 7 tháng tuổi. Ngồi liên quan đến cả sự phối hợp và sức mạnh cơ bắp, và 90% trẻ sơ sinh đạt được cột mốc này từ 5 đến 9 tháng tuổi. Trong một ví dụ khác, trẻ sơ sinh trung bình có thể ngóc đầu lên khi được 6 tuần tuổi và 90% trẻ sơ sinh đạt được điều này trong khoảng từ 3 tuần đến 4 tháng tuổi. Nếu một đứa trẻ được 4 tháng tuổi không ngóc đầu lên được thì chứng tỏ em bé đang có dấu hiệu bị chậm trễ. Nếu trẻ có biểu hiện chậm phát triển ở một số mốc quan trọng thì đó là yếu tố cần được quan tâm và cha mẹ hoặc người chăm sóc nên thảo luận vấn đề này với bác sĩ nhi khoa của trẻ. Một số trường hợp chậm phát triển có thể được xác định và giải quyết thông qua can thiệp sớm.
Bảng 1. Developmental Milestones, Ages 2–5 Years | ||||
---|---|---|---|---|
Age (years) | Physical | Personal/Social | Language | Cognitive |
2 | Kicks a ball; walks up and down stairs | Plays alongside other children; copies adults | Points to objects when named; puts 2–4 words together in a sentence | Sorts shapes and colors; follows 2-step instructions |
3 | Climbs and runs; pedals tricycle | Takes turns; expresses many emotions; dresses self | Names familiar things; uses pronouns | Plays make believe; works toys with parts (levers, handles) |
4 | Catches balls; uses scissors | Prefers social play to solo play; knows likes and interests | Knows songs and rhymes by memory | Names colors and numbers; begins writing letters |
5 | Hops and swings; uses fork and spoon | Distinguishes real from pretend; likes to please friends | Speaks clearly; uses full sentences | Counts to 10 or higher; prints some letters and copies basic shapes |
Nhận thức
Bên cạnh sự phát triển nhanh chóng về thể chất, trẻ nhỏ còn thể hiện sự phát triển đáng kể về khả năng nhận thức. Piaget cho rằng khả năng hiểu các đồ vật của trẻ, chẳng hạn như biết được tiếng lục lạc phát ra khi lắc tay, là một kỹ năng nhận thức phát triển dần dần khi trẻ trưởng thành và tương tác với môi trường. Ngày nay, các nhà tâm lý học phát triển cho rằng Piaget đã sai. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng ngay cả những đứa trẻ còn rất nhỏ cũng hiểu các đồ vật và cách chúng hoạt động rất lâu trước khi chúng có kinh nghiệm với những đồ vật đó (Baillargeon, 1987; Baillargeon, Li, Gertner, & Wu, 2011). Ví dụ, những đứa trẻ mới 3 tháng tuổi đã thể hiện kiến thức về các thuộc tính của các đồ vật mà chúng chỉ mới được xem và chưa có kinh nghiệm về chúng. Trong một nghiên cứu, những đứa trẻ sơ sinh 3 tháng tuổi được quan sát thực tế một chiếc xe tải đang lăn xuống đường ray và cả thông qua màn hình màn hình tivi. Chiếc hộp, trông có vẻ rắn chắc nhưng thực ra lại rỗng, được đặt bên cạnh đường ray. Chiếc xe tải đã cán qua chiếc hộp như dự kiến. Sau đó, chiếc hộp được đặt trên đường ray để chặn đường đi của xe tải. Khi chiếc xe tải lăn xuống đường lần này, nó tiếp tục không hề gặp trở ngại. Trẻ sơ sinh dành nhiều thời gian hơn để xem xét sự kiện này (Hình 1). Baillargeon (1987) kết luận rằng chúng biết các vật rắn không thể đi xuyên qua nhau. Những phát hiện của Baillargeon cho thấy rằng những đứa trẻ còn rất nhỏ có sự hiểu biết về các đồ vật và cách chúng hoạt động, điều mà Piaget (1954) đã nói là vượt quá khả năng nhận thức của chúng do những trải nghiệm hạn chế của chúng về thế giới.
Cũng như có những cột mốc về thể chất mà chúng ta mong đợi trẻ đạt được, trẻ cũng có những cột mốc về nhận thức. Sẽ rất hữu ích nếu nhận thức được những mốc quan trọng này khi trẻ có được những khả năng mới để suy nghĩ, giải quyết vấn đề và giao tiếp. Ví dụ, trẻ lắc đầu để tỏ ý “không” vào khoảng 6 - 9 tháng tuổi và trẻ đáp lại các yêu cầu bằng lời nói như “vẫy tay chào” hoặc “hôn nhẹ” vào khoảng 9 - 12 tháng. Hãy nhớ ý tưởng của Piaget về tính ổn định của đối tượng. Chúng ta có thể mong đợi trẻ nắm bắt được khái niệm rằng các đồ vật tiếp tục tồn tại ngay cả khi chúng không được nhìn thấy vào khoảng 8 tháng tuổi. Bởi vì trẻ mới biết đi (tức là 12 - 24 tháng tuổi) đã nắm vững tính ổn định của đồ vật, chúng thích các trò chơi như trốn tìm và chúng nhận ra rằng ai đó rời khỏi phòng, chúng sẽ quay lại (Loop, 2013). Trẻ mới biết đi cũng chỉ vào các bức tranh trong sách và nhìn vào những nơi thích hợp khi bạn yêu cầu chúng tìm đồ vật.
Trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo (tức là 3 - 5 tuổi) cũng có những tiến bộ ổn định trong phát triển nhận thức. Chúng không chỉ có thể đếm, gọi tên màu sắc và cho bạn biết tên và tuổi của nó mà còn có thể tự mình đưa ra một số quyết định, chẳng hạn như chọn trang phục để mặc. Trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo hiểu các khái niệm cơ bản về thời gian và trình tự (trước và sau) và chúng có thể dự đoán điều gì sẽ xảy ra tiếp theo trong một câu chuyện. Chúng cũng bắt đầu thích sử dụng sự hài hước trong các câu chuyện. Bởi vì trẻ có thể suy nghĩ một cách tượng trưng, chúng thích chơi sắm vai và sáng tạo ra các nhân vật cùng với kịch bản phức tạp. Một trong những ví dụ phổ biến nhất về sự phát triển nhận thức của trẻ là sự tò mò nảy nở. Trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo thích hỏi "Tại sao?" (hẳn nhiên chúng ta sẽ có lúc cảm thấy phát mệt).
Một sự thay đổi nhận thức quan trọng xảy ra ở trẻ em trong độ tuổi này. Hãy nhớ lại rằng Piaget đã mô tả trẻ 2 - 3 tuổi là người xem mình là trung tâm, nghĩa là trẻ không nhận thức được góc nhìn của người khác. Từ 3 đến 5 tuổi, trẻ hiểu rằng mọi người có những suy nghĩ, cảm xúc và niềm tin khác với mình. Điều này được gọi là lý thuyết của tâm trí [theory-of-mind]. Trẻ có thể sử dụng kỹ năng này để trêu chọc người khác, thuyết phục cha mẹ mua một thanh kẹo hoặc hiểu lý do tại sao anh chị em có thể tức giận. Khi trẻ phát triển “thuyết của tâm trí”, chúng có thể nhận ra rằng những người khác có niềm tin sai lầm (Dennett, 1987; Callaghan và cộng sự, 2005).
Các kỹ năng nhận thức tiếp tục phát triển ở giai đoạn giữa và cuối giai đoạn nhi đồng (6 - 11 tuổi). Các quá trình suy nghĩ trở nên logic và có tổ chức hơn khi xử lý thông tin cụ thể. Trẻ em ở độ tuổi này hiểu được các khái niệm như quá khứ, hiện tại và tương lai, giúp chúng có khả năng lập kế hoạch và hướng tới mục tiêu. Ngoài ra, chúng có thể xử lý các ý tưởng phức tạp như cộng và trừ và các mối quan hệ nhân - quả. Tuy nhiên, mức độ chú ý của trẻ em có xu hướng rất hạn chế cho đến khi chúng được khoảng 11 tuổi. Sau thời điểm đó, nó bắt đầu cải thiện qua tuổi trưởng thành.
Một khía cạnh được nghiên cứu kỹ lưỡng của sự phát triển nhận thức là tiếp thu ngôn ngữ. Như đã đề cập trước đó, thứ tự trẻ em học cấu trúc ngôn ngữ là nhất quán giữa trẻ và các nền văn hóa (Hatch, 1983). Bạn cũng đã biết rằng một số nhà nghiên cứu tâm lý đã đề xuất rằng trẻ em sở hữu khuynh hướng sinh học trong việc tiếp thu ngôn ngữ.
Bắt đầu từ trước khi chào đời, trẻ bắt đầu phát triển các kỹ năng ngôn ngữ và giao tiếp. Khi mới sinh, trẻ sơ sinh dường như nhận ra giọng nói của mẹ và có thể phân biệt giữa (các) ngôn ngữ mẹ nói và ngoại ngữ, và chúng thể hiện sở thích đối với những khuôn mặt chuyển động trên đồng bộ với ngôn ngữ nghe được (Blossom & Morgan, 2006; Pickens, 1994 ; Spelke & Cortelyou, 1981).
Trẻ em truyền đạt thông tin thông qua cử chỉ rất lâu trước khi cả chúng bắt đầu nói, và có một số bằng chứng cho thấy việc sử dụng cử chỉ dự đoán sự phát triển tiếp theo của ngôn ngữ (Iverson & Goldin-Meadow, 2005). Về mặt tạo ra ngôn ngữ nói, trẻ sơ sinh bắt đầu thủ thỉ gần như ngay lập tức. Thủ thỉ [cooing] là sự kết hợp một âm tiết của một phụ âm và một nguyên âm. Điều thú vị là trẻ sơ sinh tái tạo âm thanh từ chính ngôn ngữ của chúng. Một em bé có cha mẹ nói tiếng Pháp sẽ thủ thỉ với giọng điệu khác với một em bé có cha mẹ nói tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Urdu. Sau khi thủ thỉ, bé bắt đầu bi bô. Việc bập bẹ bắt đầu bằng việc lặp lại một âm tiết, chẳng hạn như ma-ma, da-da, hoặc ba-ba. Khi một em bé được khoảng 12 tháng tuổi, chúng ta mong đợi nó sẽ nói từ đầu tiên có nghĩa và bắt đầu kết hợp các từ để các từ đó có nghĩa vào khoảng 18 tháng.
Vào khoảng 2 tuổi, trẻ mới biết đi sử dụng từ 50 đến 200 từ; đến 3 tuổi, chúng có vốn từ vựng lên đến 1000 từ và có thể nói thành câu. Trong những năm tuổi nhi đồng, vốn từ vựng của trẻ em tăng lên với tốc độ nhanh chóng. Đây đôi khi được gọi là “sự bùng phát từ vựng” và đã được khẳng định mở rộng vốn từ vựng với tốc độ 10 - 20 từ mới mỗi tuần. Gần đây nghiên cứu có thể chỉ ra rằng khi một số trẻ em trải qua những cú bứt phá này, thì điều này vẫn chưa là điều có tính phổ quát (Ganger & Brent, 2004). Người ta ước tính rằng, trẻ 5 tuổi hiểu khoảng 6000 từ, nói được 2000 từ và có thể định nghĩa các từ và câu hỏi ý nghĩa của các từ đó. Chúng có thể ghép vần và gọi tên các ngày trong tuần. Trẻ bảy tuổi nói trôi chảy và thậm chí sử dụng tiếng lóng và những từ rập khuôn (Stork & Widdowson, 1974).
Điều gì giải thích cho việc học ngôn ngữ của trẻ em theo cách ấn tượng như vậy? Nhà tâm lý học hành vi B. F. Skinner nghĩ rằng chúng ta học ngôn ngữ để đáp lại sự củng cố hoặc phản hồi, chẳng hạn như thông qua sự chấp thuận của cha mẹ hoặc thông qua việc được hiểu. Ví dụ, khi một đứa trẻ hai tuổi đòi nước trái cây, trẻ có thể nói: “Nước ép của coni”, mẹ có thể đáp lại bằng cách cho trẻ một cốc nước táo. Noam Chomsky (1957) chỉ trích lý thuyết của Skinner và đề xuất rằng tất cả chúng ta đều được sinh ra với khả năng học ngôn ngữ bẩm sinh. Chomsky gọi cơ chế này là thụ đắc ngôn ngữ [language acquisition device]. Ai là người đúng? Cả Chomsky và Skinner đều đúng. Hãy nhớ rằng chúng ta là sản phẩm của cả tự nhiên và sự nuôi dưỡng. Các nhà nghiên cứu hiện tin rằng việc tiếp thu ngôn ngữ một phần là bẩm sinh và một phần học được thông qua các tương tác của chúng ta với môi trường ngôn ngữ của chúng ta (Gleitman & Newport, 1995; Stork & Widdowson, 1974).