Ý chí là khả năng giúp con người hoàn thành những hành vi đã định nhằm đạt được mục đích đề ra, đó chính là khả năng điều hòa và điều khiển có ý thức hành vi của bản thân mình. Cùng như ý chí chính là sự tập trung cao độ của tinh thần cho phép con người ức chế những yếu tố không liên quan hay không ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết vấn đề nhằm đạt được một mục đích nào đó. Ý chí như vậy chính là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn bên ngoài và bên trong.

Một số phẩm chất của ý chí

Trong quá trình sống và hoạt động, con người sẽ dần hình thành những phẩm chất ý chí cần thiết để tồn tại và phát triển. Cũng chính nhũng phẩm chất này đặc trưng cho nhân cách của con người. Nó sẽ là nền tảng hay điều kiện thực hiện những mục đích hay lý tưởng sống của con người khi hỗ trợ con người vượt qua những khó khăn và thách thức. Có thể đề cập đến những phẩm chất sau của ý chí: tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, tính kiên trì và tính tự chủ.

Tính mục đích: Đây là một phẩm chất quan trọng của ý chí liên quan chặt chẽ đến khả năng đề ra mục đích trong hoạt động và trong cuộc sống của mình. Ngoài ra, tính mục đích giúp con người biết điều khiển hành vi của mình phục tùng vào định hướng đã được xác lập một cách tự giác, mạnh mẽ.

Tính độc lập: Tính độc lập liên quan đến khả năng đưa ra những quyết định và thực hiện hành động đã dự định mà không chịu ảnh hưởng bởi người khác. Tính độc lập trong ý chí còn thể hiện ở điểm chủ thể không bị ám thị hay áp đặt suy nghĩ, hành động bởi một đối tượng khác khi mình đã có suy nghĩ, cân nhắc và đưa ra những sự lựa chọn.

Tính quyết đoán: Tính quyết đoán là phẩm chất của ý chí liên quan chặt chẽ đến khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát mà không có những tình trạng dao động không cần thiết hay phụ thuộc vào những tác động xung quanh. Tính quyết đoán được thể hiện vẫn dựa trên nền tảng của sự suy nghĩ, cân nhắc và phân tích một cách thấu đáo. Đó là lúc mà sự tham gia của nhận thức được thể hiện một cách rõ nét để con người đưa ra những quyết định hay những hành động có căn cứ.

Tính kiên trì: Tính kiên trì của ý chí liên quan đến khả năng vượt khó để đạt được mục đích dù rằng quá trình thực hiện ấy có thể ngắn nhưng cũng có thể rất dài. Tính kiên trì này thể hiện cường độ của ý chí mà đó chính là sự bền bỉ làm cho cá nhân không cảm thấy mệt mỏi, chán nản. Những thách thức và khó khăn dù có tác động cũng không làm cho cá nhân nhụt chí mà còn làm cho cá nhân có thêm sức mạnh và nghị lực để vượt qua tất cả những rào chặn phía trước hành trình thực hiện mục đích của chính mình.

Tính tự chủ: Tính tự chủ liên quan đến khả năng làm chủ được bản thân trong những trường hợp có sự xung đột tâm lý bên trong.

Hành động ý chí

Hành động ý chí hiểu một cách đơn giản là những hành động thực hiện theo sự nỗ lực của ý chí, sự cố gắng của nhận thức - hành vi.

Hành động ý chí được xác định dựa trên sự mong đợi của con người, những điều kiện thực hiện cũng như những tác động khác. Khi con người ý thức được mục đích và điều kiện thực hiện thì hành động ý chí mới trở nên mạnh mẽ vì nó sẽ thôi thúc con người đạt được mục đích. Nếu mất đi đặc điểm này thì hành động ý chí sẽ không thể tồn tại và không thể gọi đó là hành động ý chí. Trong hành động ý chí, con người luôn có quá trình lựa chọn phương tiện và biện pháp hành động sao cho thực hiện được mục đích và đạt được một kết quả như mong muốn.

Các giai đoạn của hành động ý chí

Giai đoạn chuẩn bị: Nhu cầu chính là yếu tố cơ bản thúc đầy cho hành động ý chí được chuẩn bị. Nhu cầu là yếu tố kích thích, gây ra mọi hành động.

  • Mức độ thấp - ý hướng: ở mức độ này mới chỉ phản ánh trong ý thức, nghĩa là còn mù mờ, chưa rõ ràng. Nhu cầu ở mức ý hướng là nhu cầu còn chưa rõ ràng, chưa phản ánh một cách đầy đủ.
  • Mức độ cao hơn ý muốn - so với ý hướng: thì nhu cầu biểu hiện rõ ràng hơn, xác định được đối tượng của nhu cầu, nhưng chưa xác định được phương pháp thực hiện mục đích.
  • Mức độ ý định: là nhu cầu đã được ý thức một cách đầy đủ, con người đã xác định được mục đích của hành động.

Giai đoạn quyết định thực hiện hoạt động: Kết quả của những đấu tranh trong chính bản thân là hành động đưa đến những quyết định. Giai đoạn quyết định thực hiện hoạt động dựa trên những suy nghĩ và cân nhắc của cá nhân. Quyết định là việc kết thúc giai đoạn chuẩn bị cho hành vi ý chí.

  • Quyết định thông thường là quyết định hầu như không tách rời khỏi các ý muốn cụ thể, thực hiện tiêu biểu qua các hành vi ý chí đơn giản, dễ dàng xảy ra, không có sự dao động gì và thường không có sự đấu tranh giữa các động cơ hoặc sự đấu tranh ấy bị hạn chế tối đa.
  • Quyết định không có đủ cơ sở là quyết định được đưa ra trong những tình huống khó khăn mà chủ thể chưa có sự chuẩn bị để vượt qua.
  • Quyết định có ý thức là quyết định tiêu biểu đối với những hành vi ý chí được thực hiện một cách độc lập sau khi đã phân tích kỹ các tình huống.
  • Nỗ lực ý chí thể hiện ở sự chú ý tập trung vào hoạt động cần thiết, hoặc ở sự kích thích chủ thể hoạt động, mặc dù có những khó khăn trở ngại nảy sinh trên con đường đạt tới mục đích.

Giai đoạn thực hiện: Quá trình thực hiện quyết định có thể có hai hình thức hành động bên ngoài - hành động bên trong, có thể gọi đó là hành động ý chí bên ngoài và hành động ý chí bên trong. Nếu con người ta đi chệch khỏi con đường đã định tức lệch mục đích thì đó là hành động thiếu ý chí. Việc thực hiện được tiến hành bằng các thao tác hoạt động nhất định nhằm đạt tới mục đích với những phương thức nhất định.

Giai đoạn đánh giá: Đánh giá kết quả hành động là đối chiếu kết quả đạt được với mục đích đã định. Sự đánh giá có thể xảy ra hai trạng thái: Đánh giá xấu thường kèm theo những rung cảm xấu hổ, hối hận, chưa thỏa mãn; Đánh giá tốt xảy với những rung cảm thỏa mãn, hài lòng, sung sướng.