Nhân cách cá nhân Đánh giá nhân cách Thang đo tự lượng giá

Thang đo tự lượng giá [self-report inventory] là một dạng trắc nghiệm khách quan dùng để đánh giá nhân cách. Họ thường sử dụng các mục trắc nghiệm hoặc các thang đánh số, đại diện cho phạm vi từ 1 (hoàn toàn không đồng ý) đến 5 (hoàn toàn đồng ý). Chúng thường được gọi là thang đo Likert theo tên nhà phát triển của chúng, Rensis Likert (1932). Thang đo thường dễ quản lý và tiết kiệm chi phí. Cũng có nhiều khả năng người tham gia trắc nghiệm có xu hướng trả lời theo những cách mà xã hội mong muốn một cách cố ý hoặc vô ý, cường điệu, thiên lệch hoặc gây hiểu lầm. Ví dụ, một người nào đó nộp đơn xin việc sẽ cố gắng thể hiện bản thân theo cách tích cực, có thể là một ứng viên thậm chí đánh giá bản thân còn tốt hơn họ thực tế.Một trong những công cụ đánh giá nhân cách được sử dụng rộng rãi nhất là Minnesota Multiphasic Personality Inventory (MMPI), được xuất bản lần đầu vào năm 1943, với 504 câu hỏi đúng hoặc sai và đã được cập nhật lên MMPI-2 vào năm 1989, với 567 câu hỏi. MMPI ban đầu dựa trên một mẫu nhỏ, giới hạn, bao gồm hầu hết là nông dân Minnesota và bệnh nhân tâm thần; thang lượng giá sửa đổi dựa trên mẫu quốc gia, có tính đại diện để cho phép tiêu chuẩn hóa tốt hơn. MMPI-2 mất 1–2 giờ để hoàn thành. Các câu trả lời được chấm điểm để tạo ra một hồ sơ lâm sàng bao gồm 10 thang điểm cho các chứng  nghi bệnh [hypochondriasis], trầm cảm [depression], rối loạn phân ly [hysteria], lệch lạc phản xã hội [psychopathic deviance], tính nam/tính nữ [masculinity versus femininity], hoang tưởng [paranoia], suy nhược tâm thần [psychasthenia] (các tính chất ám ảnh hoặc cưỡng chế), tâm thần phân liệt [schizophrenia] , hưng cảm [hypomania] và hướng nội xã hội [social introversion]. Cũng có một thang đo để xác định các yếu tố nguy cơ của lạm dụng rượu. Năm 2008, thử nghiệm một lần nữa được sửa đổi, sử dụng các phương pháp tiên tiến hơn, thành MMPI-2-RF. Phiên bản này mất khoảng một nửa thời gian để hoàn thành và chỉ có 338 câu hỏi (Hình 1). Mặc dù có những ưu điểm của thử nghiệm mới, MMPI-2 vẫn được sử dụng rộng rãi hơn. Thông thường, các bài kiểm tra được thực hiện bằng máy tính. Mặc dù MMPI ban đầu được phát triển để hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng các rối loạn tâm lý, nhưng hiện nay nó cũng được sử dụng để sàng lọc nghề nghiệp, chẳng hạn như trong cơ quan thực thi pháp luật và tư vấn hôn nhân, nghề nghiệp và đại học (Ben-Porath & Tellegen, 2008).

Hình 1

Ngoài thang đo lâm sàng, các bài kiểm tra này còn có thang đo về độ hiệu lực và tin cậy. Một trong những thang đo tính hợp lệ, Thang đo nói dối [lie scale], bao gồm 15 mục và được sử dụng để xác định xem người trả lời có “giả lành mạnh” hay không (tức là báo cáo thấp các vấn đề tâm lý để trông có vẻ khỏe mạnh). Ví dụ: nếu ai đó trả lời “có” với một số mục tích cực không thực tế, chẳng hạn như “Tôi chưa bao giờ nói dối”, họ có thể đang cố gắng “giả lành mạnh” hoặc tỏ ra mình tốt hơn thực tế.Độ tin cậy kiểm tra tính nhất quán của công cụ theo thời gian, đảm bảo rằng nếu bạn sử dụng MMPI-2-RF hôm nay và 5 năm sau nữa, hai điểm số của bạn sẽ tương tự nhau. Beutler, Nussbaum, và Meredith (1988) đã đưa MMPI cho các sĩ quan cảnh sát mới được tuyển dụng làm và cho họ làm lại sau 2 năm. Sau 2 năm làm việc, các câu trả lời của các sĩ quan cảnh sát cho thấy nguy cơ nghiện rượu tăng lên, các triệu chứng soma (than phiền mơ hồ, không giải thích được) và lo lắng. Khi thử nghiệm được thực hiện thêm 2 năm sau (4 năm sau khi bắt đầu công việc), kết quả cho thấy nguy cơ cao đối với các khó khăn liên quan đến rượu.